Công vụ 13:"Phản ứng người nghe đạo ở An-ti-ốt xứ Bi-si-đi"
"Ta sẽ khiến ngươi làm sự sáng cho các dân ngoại, hầu cho ngươi làm sự cứu rỗi của ta đến nơi đầu cùng đất." Ê sai 49:6b
Công vụ 13:"Phản ứng người nghe đạo ở An-ti-ốt xứ Bi-si-đi"
Câu hỏi:
1/ Điều gì khiến nhiều người trong nhà Hội nài nỉ Phao lô và Ba na ba trở lại giảng lần nữa?
2/ Phản ứng của người ngoại ra sao? Họ hành động gì sau khi đã Tin Chúa?
3/ Phản ứng của dân Giu đa ra sao? Vì sao dân Y sơ ra ên khó lòng tin Chúa?
           "Phản ứng người nghe đạo ở An-ti-ốt xứ Bi-si-đi"
*** Người ngoại và người Giu đa đều chú ý đến bài giảng của Phao lô: câu 42 -44
" Khi hai người bước ra, chúng xin đến ngày Sa-bát sau cũng giảng luận các lời đó. 43 Lúc hội đã tan, có nhiều người Giu-đa và người mới theo đạo Giu-đa, đi theo Phao-lô và Ba-na-ba, hai người nói chuyện với họ và khuyên cứ vững lòng theo ơn Đức Chúa Trời. 44 Ngày Sa-bát sau, gần hết cả thành đều nhóm lại để nghe đạo Chúa."
Quả thật, Lời Chúa qua bài giảng của Phao lô đã gây một sự chú ý đặc biệt từ cả hai phía, người ngoại và người Giu đa, họ mong muốn được nghe giảng lần nữa vào ngày Sa bát tới.
 Có lẽ đây là lần đầu tiên, bọn họ được chỉ dẫn để nhận ra, tất cả những lời tiên tri mà họ từng biết trong cựu ước, đều hướng về một người duy nhất là Chúa Giê su. Vì Phao lô khi giảng về Chúa Giê su, cũng tuyên bố sự cứu rỗi đã đến hôm nay, và sự phán xét cũng sẽ đi theo cùng với việc họ nghe thấy Tin Lành mà tiếp nhận hay không tiếp nhận.
Chúng ta có thể thấy số người tiếp nhận nhiều hơn là từ chối, vì sứ điệp của Phao lô và Ba na ba đã động chạm đến tấm lòng của họ.
Phao lô khuyên mọi người nên lấy ân điển của Đức Chúa Trời làm căn bản cho mối tương giao của họ với Đức Chúa Trời mà họ đang thờ phượng.
Ân điển đó được thể hiện qua Chúa Giê su, nhận lấy Chúa Giê su là nhận lấy ân điển của Đức Chúa Trời.
Một kết quả tốt lành mà người rao giảng Tin lành luôn ao ước nằm trong câu 44:
" Ngày Sa bát sau đó, cả thành đều nhóm lại để nghe Đạo Chúa."
 Cả thành khao khát được nghe một sứ điệp vừa mới mẻ, vừa có sức mạnh về Chúa Giê su, đây là sức mạnh chính yếu thu hút mọi người, và Lu-ca đã nhấn mạnh điều đó trong câu chuyện của mình.
 
 Sau khi cả thành chú ý đến sứ điệp về Chúa Giê su, thì chúng ta được thấy hai thái độ khác nhau, người ngoại hoan hỉ nhận lấy đạo, còn dân Giu đa lại chống đối.
*** Tin lành được giảng ra cho dân ngoại vì Giu đa cứng lòng: câu 45 - 49
" Song những người Giu-đa thấy đoàn dân đó thì đầy lòng ghen ghét, nghịch cùng lời Phao-lô nói và mắng nhiếc người. 46 Phao-lô và Ba-na-ba bèn nói cùng họ cách dạn dĩ rằng: Ấy cần phải truyền đạo Đức Chúa Trời trước nhất cho các ngươi; nhưng vì các ngươi đã từ chối, và tự xét mình không xứng đáng nhận sự sống đời đời, nên đây nầy, chúng ta mới xây qua người ngoại. 47 Vì Chúa có phán dặn chúng ta như vầy: Ta lập ngươi lên đặng làm sự sáng cho các dân, Hầu cho ngươi đem sự cứu-rỗi cho đến cùng cõi đất. 48 Những người ngoại nghe lời đó thì vui mừng, ngợi khen đạo Chúa, và phàm những kẻ đã được định sẵn cho sự sống đời đời, đều tin theo. 49 Đạo Chúa tràn ra khắp trong xứ đó."
Theo Kinh Thánh, Phúc âm được ban cho dân ngoại, sau khi dân Israel phần lớn chối bỏ Chúa Jesus là Đấng Messiah. Kế hoạch của Chúa luôn bao gồm việc cứu rỗi cả người Do Thái lẫn dân ngoại, nhưng sự thay đổi trọng tâm này trở nên rõ ràng sau khi dân Israel vô tín lan rộng.
 Trong Ma thi ơ 15: 21 -14 khi nói về người đàn bà Ca na an, Chúa Giê su khẳng định rằng Đức Chúa Trời muốn ban sự cứu rỗi cho cả dân Y sơ ra ên và người ngoại, nhưng dân Y sơ ra ên vẫn được ưu tiên trước.
Tuy vậy, khi Tin lành đến, thì sự thật trái ngược, dân ngoại lại là người đón nhận Chúa Giê su dễ dàng hơn. Hãy xem Rô ma 11: 25 & 26
" Vả, hỡi anh em, tôi không muốn anh em chẳng biết sự mầu nhiệm nầy, e anh em khoe mình khôn ngoan chăng: ấy là một phần dân Y-sơ-ra-ên đã sa vào sự cứng lòng, cho đến chừng nào số dân ngoại nhập vào được đầy đủ; 26 vậy thì cả dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu, như có chép rằng: Đấng Giải cứu sẽ đến từ Si-ôn, Cất sự vô đạo ra khỏi Gia-cốp; "
và Rô ma 11: 11:
" Tôi lại hỏi rằng: Có phải dân Y-sơ-ra-ên vấp chân dường ấy hầu cho té xuống chăng? Chẳng hề như vậy! Nhưng ấy là bởi tội lỗi họ mà sự cứu đã đến cho dân ngoại, hầu để giục lòng tranh đua của họ. "
Khi người Do Thái thấy đám đông tin Chúa Giê su vì bài giảng của Phao lô và Ba na ba, thì lòng họ đầy ghen tị.
Không khác gì các bậc cầm quyền ở Giê ru sa lem, các nhà lãnh đạo hội đường ghen tị khi thấy mình không còn ảnh hưởng trên đán đông. Điều này không thể tránh khỏi, đối với những người quan tâm đến việc được nhiều người chú ý đến mình hơn là phụng sự Đức Chúa Trời.
Lời mắng nhiếc, phạm thượng được đề cập ở đây, có lẽ liên quan đến ngôn ngữ lăng mạ và hạ thấp Chúa Giê-su, Đấng mà Phao-lô đang rao giảng.
 Họ phản đối những điều Phao-lô nói. Thật kỳ lạ khi những người tỏ ra sùng đạo này, là những người chờ đợi Đấng Mê-si rất lâu, giờ đây, khi Đấng ấy đến rồi, họ lại chối bỏ Ngài khi được giới thiệu với họ.
 Một lý do quan trọng khác, là họ muốn duy trì sự phân chia giữa người Do Thái và người Ngoại.
Họ không muốn nghe nói Chúa Giê-su là Đấng Mê-si của tất cả mọi người, nhưng họ quên rằng, từ rất lâu, Kinh Thánh đã nói, Áp ra ham được xưng là Cha của nhiều dân tộc và trong Ê sai cũng nói ánh sáng của Chúa cũng chiếu sáng cho dân ngoại.
Không biết liệu Phao-lô có nản lòng hay không khi rao giảng Phúc Âm mà bị chống đối hay mắng chữi không? Nhưng Phao lô vẫn tiếp tục rao giảng một cách lạc quan. Xét theo góc độ con người, Phao-lô chắc đã nản lòng, nhưng ông không hề bối rối vì ông đã được Chúa soi dẫn trong lời Ngài rằng, đa số dân Y-sơ-ra-ên chối bỏ Phúc Âm.
Đối với Phao-lô, đây là một vấn đề lớn. Bản thân ông là người Do Thái. Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a của người Do Thái. Chúa Giê-su đã thực hiện những gì được tiên tri về Ngài trong Kinh Thánh Do Thái. Các sứ đồ đã rao giảng Phúc Âm, nhưng phần lớn người Do Thái lại từ chối sứ điệp này. Làm sao có thể như vậy? Làm sao Đấng Mê-si-a của Y-sơ-ra-ên lại bị dân Y-sơ-ra-ên từ chối?
Tại sao? Bởi vì dân Y sơ ra ên theo đuổi sự cứu rỗi mà không có đức tin, và chỉ dựa vào sự công chính của riêng mình, từ chối sự công chính của Đức Chúa Trời. Nói cách khác, người Do Thái thời Phao-lô muốn Đức Chúa Trời khen ngợi họ vì những điều tốt đẹp họ đã làm. Đó chính xác là sai lầm mà mọi người thuộc mọi sắc tộc ngày nay cũng mắc phải. Họ không muốn ân điển của Đức Chúa Trời. Họ muốn tự mình đạt được sự cứu rỗi.
Dù bị chống đối cách thô bạo, nhưng Phao lô và Ba na ba không hề nao núng, hai ông cũng lấy lời Kinh Thánh mà đối đáp với họ, rằng, Tin lành của Đức Chúa Trời có dành ưu tiên cho Y sơ ra ên trước, nhưng họ đã không tiếp nhận, thì Tin lành đó sẽ lan ra người ngoại.
 Phao lô và Ba na ba dạn dĩ khiển trách những người đã chối bỏ Chúa Giê-su. Hai ông nói, các anh em không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, nên này, chúng tôi hướng đến dân ngoại.
Phao-lô đã tỏ ra khôn ngoan khi không dành toàn bộ thời gian để cố gắng thuyết phục những tấm lòng chai đá. Chúng ta biết rằng ngay cả sau khi ông đặt dân Ngoại làm trọng tâm cho công cuộc truyền giáo của mình, ông vẫn tha thiết cầu nguyện cho sự cứu rỗi của dân Y-sơ-ra-ên Rô-ma 10:1:
"Hỡi anh em, sự ước ao trong lòng tôi và lời tôi vì dân Y-sơ-ra-ên cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời, ấy là cho họ được cứu."
Trên thực tế, Phao lô đã dành thời gian truyền giáo để phục vụ những tấm lòng cởi mở hơn.
Dân ngoại khi nghe được Phúc âm, họ vui mừng và tôn vinh Chúa. Nhiều người được chọn cho sự sống đời đời vì đã tin. Họ cũng đáp lại ân điển đó bằng cách truyền giảng nhiều hơn, để mở lòng người khác, giờ đây Đạo Chúa được tràn ra khắp thành phố.
*** Phao lô và Ba na ba bị đuổi khỏi thành phố: câu 50 & 51
" Nhưng các người Giu-đa xui giục những đàn bà sang trọng sốt sắng và dân đàn anh trong thành; gây sự bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba, mà đuổi ra khỏi phần đất mình. 51 Hai người đối cùng họ phủi bụi nơi chân mình, rồi đi đến thành Y-cô-ni. 52 Còn các môn đồ thì được đầy dẫy sự vui vẻ và Đức Thánh Linh vậy."
Lời Chúa được lan truyền qua nỗ lực của Phao-lô và Ba-na-ba, nhưng đặc biệt là qua đời sống của những người mới vừa Tin nhận Chúa Giê-su Christ.
 Thật đáng kinh ngạc khi các nhóm tin Chúa Giê su được thành lập chỉ trong hơn một tuần. Vào một ngày Sa-bát đầu tiên, rối qua tuần thứ hai, Phao lô và Ba na ba đã chọn những người tiếp thu và thành lập những nhóm mới, qua các nhóm mới đó, lời Chúa đã được lan truyền khắp vùng.
Khi đạo Chúa được tấn tới thì Satan cũng ra tay, người Do Thái đã kích động những phụ nữ sùng đạo, có địa vị và những người đàn ông quyền quý trong thành phố, nổi dậy bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba, và trục xuất họ khỏi vùng đất của họ.
Sự phản đối của người Do Thái đủ mạnh để buộc Phao-lô và Ba-na-ba phải rời khỏi đó để đến Y cô ni.
Khi rời khỏi thành phố, Phao lô và Ba na ba phủi bụi chân mình, làm như vậy, hai ông có ý nói, đó là một thành phố ngoại bang chối bỏ Đức Chúa Trời.
Nếu một người Do Thái phải đi qua thành phố ngoại bang, khi rời khỏi thành phố, họ phủi bụi chân như một cử chỉ nói rằng: "Chúng tôi không muốn mang theo bất cứ thứ gì từ thành phố ngoại bang này." Theo nghĩa này, Phao-lô đã nói: "Tôi không muốn mang theo bất cứ thứ gì từ các người theo đạo chối bỏ Chúa Giê-su."
Phao lô và Ba na ba không nản lòng với công cuộc truyền giáo của mình, hai ông bỏ xứ đó rồi đi đến Y cô ni.
Hai ông đầy dẫy niềm vui và Đức Thánh Linh: Đầy dẫy niềm vui và đầy dẫy Đức Thánh Linh đi đôi với nhau. Phao-lô và Ba-na-ba đã có niềm vui trái ngược với hoàn cảnh của họ.
Phao-lô là một tấm gương tuyệt vời về mệnh lệnh của chính ông là phải luôn được đầy dẫy Đức Thánh Linh, Ê-phê-sô 5:18 & 19
" Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh. 19 Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa."
Niềm vui của một Cơ Đốc nhân chân chính nằm ngoài tầm với của những xáo trộn trần gian, và không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi và rủi ro mà những điều hữu hạn phải đối mặt.
Phao lô dù gặp rất nhiều trở ngại, ông cũng rất lạc quan, dù Phao lô đã tự diễn tả mình là người có bề ngoài yếu đuối, nhưng bên trong, Chúa trang bị cho ông một sức mạnh phi thường. 
 Phao lô, một người Do Thái, quan tâm đến người Do Thái, nhưng là một sứ giả cho người ngoại.
.