" Truyền giáo tại Iconium -Thành công & thử thách"

**Dân Tộc Việt **Các Phương Tiện zoom

" Phao-lô, tôi tớ Đức Chúa Jêsus Christ, được gọi làm sứ đồ, để riêng ra đặng giảng Tin Lành Đức Chúa Trời," Rô ma 1: 1

Công vụ 14:" Truyền giáo tại Y cô ny -Thành công trong thử thách"

 

Đọc Công vụ 14: 1 - 7

 

Câu hỏi:

1/ Sau khi bị đuổi khỏi Antioch hay Iconium -Phao lô và Ba na ba có bỏ cuộc không?
          Đức Thánh Linh chuyển sự bắt bớ Tin Lành sang một mục đích gì?

 

2/ Bạn hãy kể ra sau khi làm chứng cho nhiều người Tin Chúa, hai sứ đồ phải làm gì nữa?
     Tại sao Phao lô và Ba na ba thường ở lại lâu tại một nơi?

 

3/ Mỗi lần bị bắt bớ, hai sứ đồ phải rời đi, như vậy, Sa tan thắng hay Tin lành thắng?
Có phải khi hai ông rời đi, thì những người ở đó không còn được nghe Tin Lành?

 

"Truyền giáo tại Y cô ny -Thành công trong thử thách"

 

** Phao lô và Ba na ba gặt hái nhiều người cho Chúa: câu 1

 

"Tại thành Y-cô-ni, Phao-lô và Ba-na-ba cùng vào nhà hội của người Giu-đa, và giảng một cách đến nỗi có rất nhiều người Giu-đa và người Gờ-réc tin theo."

 

Sau khi bị các lãnh đạo nhà hội ở Antioch xứ Bisidia cùng những người có quyền thế, trục xuất Phao-lô và Ba-na-ba khỏi thành phố, họ lánh sang Iconium.

Iconium, một căn cứ quân sự của La Mã ở Lycaonia cổ đại, để kiểm soát các khu dân cư trên cao nguyên Anatolian.

Khi đến Iconium, Phao-lô và Ba-na-ba cũng lại bắt đầu công cuộc truyền giáo bằng cách rao giảng trong nhà hội như cách họ vẫn thường làm ở những nơi khác.


Tại đây, bài giảng của Phao lô vẫn mang đầy thần quyền từ Đức Thánh Linh. Bài giảng sống động về sự cứu rỗi của Chúa Giê su đã khiến rất đông người Do Thái và người Hy Lạp tin theo.

Lần nầy, Phao-lô và Ba-na-ba đã thành công giữa người Do Thái và người Hy Lạp, hai ông rao giảng cùng một phúc âm cho cả hai bên.


Thành công này đã khích lệ hai người, vì họ vừa bị đuổi khỏi Antioch cách oan ức, bây giờ họ được phấn khởi trở lại. Phao-lô và Ba-na-ba đã trình bày phúc âm theo cách mời gọi niềm tin. Cách hai ông rao giảng đã khuyến khích mọi người tin vào sứ điệp về Chúa Giê-su, hai ông cho họ biết Ngài là ai và những gì Ngài đã làm cho họ. Chỉ khi tin thì mới có thể nhận sự cứu từ Đấng ấy.

 

*** Sự thành công trong truyền giáo thường đi đôi với sự chống đối: câu 2 - 7

" Song những người Giu-đa chưa chịu tin thì xui giục và khêu chọc lòng người ngoại nghịch cùng anh em. 3 Dầu vậy, Phao-lô và Ba-na-ba ở lại đó cũng khá lâu, đầy dẫy sự bạo dạn và đức tin trong Chúa, và Chúa dùng tay của hai sứ đồ làm những phép lạ dấu kỳ, mà chứng về đạo ân điển của Ngài. 4 Nhưng dân chúng trong thành chia phe ra: kẻ thì theo bên Giu-đa, người thì theo bên hai sứ đồ. 5 Lại khi những người ngoại và người Giu-đa cùng các quan mình nổi lên đặng hà hiếp và ném đá hai sứ đồ, 6 thì hai sứ đồ đã biết trước, bèn trốn tránh trong các thành xứ Ly-cao-ni, là thành Lít-trơ, thành Đẹt-bơ, và miền chung quanh đó, 7 mà giảng Tin Lành. "

 

  Tuy có nhiều người Giu đa và người ngoại tin Chúa, nhưng cũng có người Do Thái không tin, đã xúi giục dân ngoại tấn công Phao lô, Ba na ba cùng các tín hữu mới. Do vậy, dân ở đây bèn chia ra thành hai phe, bên Tin Chúa và bên Không tin Chúa.

Có lẽ vì lý do đó, Phao lô và Ba na ba đã có ý định ở lại Y cô ni lâu nhất có thể, để làm vững đạo nơi các Cơ đốc nhân còn rất mới mẻ nầy được đứng vững trước âm mưu đầu độc, phá hoại của bên kia. Ở những chỗ khác, Phao-lô cũng có xu hướng ở lại một vùng trong một thời gian khá dài, củng cố các hội thánh ở những nơi mà công cuộc truyền giáo đã mang lại kết quả.

Phao lô mong muốn nhìn thấy các Tín hữu mới có thể tự mình đứng vững được. Mục vụ Truyền giáo không thể chấm dứt ở thời điểm của một người tuyên xưng đức tin, người ấy phải được học đạo và lớn lên trong một tập hợp của những anh em đồng đức tin với mình. Đó là các Hội Thánh.

 

 Lợi dụng thời gian mà sự chống đối chưa nghiêm trọng, Phao lô và Ba na ba vẫn tiếp tục rao giảng phúc âm một cách tự do và mạnh dạn. Hai ông vẫn tiếp tục làm chứng về lời ân điển của Chúa Giê su và truyền cảm hứng cho người khác bằng quyền năng của Đức Thánh Linh.


  Đối đầu với thử thách bên ngoài, lo làm vững đạo bên trong, tiếp tục rao giảng, gây dựng Hội thánh mới, đào tạo người nống cốt, quả thật công việc của Phao lô và Ba na ba không hề ít. Người được Chúa kêu gọi bao giờ cũng thấy rất nhiều công tác ở chung quanh, bao nhiêu là trách nhiệm phải gánh vác.


Sự lao lực, nặng nhọc để gây dựng một Hội thánh mới không làm cho người truyền giáo khổ sở, nhưng chính là sự phao vu và bắt bớ. Cứ mỗi lần xảy ra như thế, Đức Chúa Trời lại mang hai người đi xa hơn trên con đường Chúa định.

Phao lô và Ba na ba không đi truyền giảng với tay không, hai ông được trang bị quyền phép để chứng minh đạo ân điển của Đức Chúa Trời. Câu 3 nói hai ông đã làm rất nhiều dấu kỳ phép lạ để làm cho người tin được vững đạo.


Trong tiếng anh nói rõ là Phao lô và Ba na ba được ban quyền phép: " Granting signs and wonders to be done by their hands" nếu dịch sát nghĩa là " Cho phép các dấu lạ và phép lạ được thực hiện bởi tay họ" - điều nầy có nghĩa gì?

Khi nghiên cứu kỹ lưỡng sách Công vụ các giáo sư khẳng định rằng:

  "Không một sứ đồ nào có thể tự mình làm phép lạ; cũng không có dấu kỳ hay phép lạ nào, ngay cả bởi sứ đồ vĩ đại nhất, nếu không phải do sự ban cho hay sự sắp đặt đặc biệt của Đức Chúa Trời. Quyền năng này không phải lúc nào cũng hiện hữu trong họ.”


Thật vậy, chỉ có Chúa Giê su là Đấng luôn có được quyền phép ở trong Ngài mà thôi.

Chúng ta cũng được học lời Kinh Thánh nói, phép lạ làm chứng cho ân điển của Chúa Giê su, xác nhận sứ điệp mà các sư đồ rao giảng. Phép lạ ứng nghiệm trên người Giu đa cũng như người ngoại. Qua phép lạ, người ta cũng tìm thấy ân điển của Chúa Giê su ban cho hai bên đều bình đẳng.

Một lần nữa, Sa tan không muốn thấy cảnh Tin lành được tấn tới trong vùng đất của nó, những người Giu đa không tin Chúa, phối hợp với nhà cầm quyền, người ngoại vô tín, đã dẫn sự chống đối  leo thang thành bạo lực, họ âm mưu ném đá Phao lô và Ba na ba.

 Chúng ta nên biết rằng, ném đá ở đây không phải là chờ đi ngang rồi ném cục đá, mà là bị xử ném đá, tội nhân có thể bị chôn nửa người dưới hố, rồi số đông sẽ dùng những tảng đá to mà ném xuống.
Có thể các Tín hữu nghe được tin đó, họ giúp hai ông trốn khỏi Iconium để đến Lystra (cách đó khoảng 30 km) và Derbe. Sự kiên trì của họ trong hoàn cảnh khó khăn ở Iconium không có nghĩa là đã đến lúc họ phải tử đạo.

Lần đầu tiên, trong Công vụ 14 nầy, hai người Phao lô và Ba na ba được gọi là "Sứ đồ" nhiều lần. Sau nầy chính Phao lô cũng tự nhận với chính danh hiệu đó trong các sách Thư tín của mình.

Có một điều lý thú là vào thời của Phao lô, Lystra, Derbe, và các thành phố của Lycaonia đã cùng ở trong vùng lãnh thổ của La mã.

 Một nhà khảo cổ học của Anh quốc là Sir William Ramsay, ông đã đi khắp Tiểu Á và nhanh chóng trở thành chuyên gia được công nhận về mọi vấn đề liên quan đến các khu vực gắn liền với các chuyến hành trình truyền giáo của Thánh Phao lô và về Cơ đốc giáo vào thời kỳ đầu của Đế chế La Mã.

 Ramsay đã chứng minh rằng Lystra và Derbe thực sự nằm cùng nhau trong tỉnh Lycaonia của La Mã, nhưng chỉ trong khoảng thời gian từ năm 37 đến năm 72 SCN, đúng vào thời điểm những sự kiện này diễn ra trong Công vụ.


Độ chính xác này đã thuyết phục Ramsay rằng lời kể trong Kinh thánh là đúng, đặc biệt chính Ramsay là người hoài nghi Kinh Thánh. Ramsay cũng tìm thấy những di tích viết bằng ngôn ngữ Pidisia và các hang động nơi các tu sĩ theo Cơ đốc giáo khi xưa trú ẩn ở Iconium.
Con đường Truyền giáo của Phao lô và Ba na ba còn để lại rất nhiều di tích. Một bằng chứng sống động nhất mà mọi người được thấy, đó là Tin lành được tiếp nối rao giảng ra khắp thế giới mà chúng ta là nhân chứng.