Công vụ 14: " Truyền giáo ở Lystra và Derbe"

**Dân Tộc Việt **Các Phương Tiện zoom

" Cho nên tôi vì Đấng Christ mà đành chịu trong sự yếu đuối, nhuốc nhơ, túng ngặt, bắt bớ, khốn khó; vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ." Cô rinh tô II 12: 10

Công vụ 14: " Truyền giáo ở Lystra và Derbe"

 

Đọc Công vụ : 8- 28

 

Câu hỏi:

1/ Ân tứ " Phân biệt" được nhắc đến trong đoạn nầy là ân từ gì?
Ai mới được ban cho? Muốn có ân từ nầy chúng ta phải có gì?

 

2/ Đằng sau những bắt bớ, hành hung, ngăn cản Tin lành, chính ai mới là hung thủ?
Nó có thắng được Tin Lành không?

 

3/Điều gì khiến bạn chùn bước trước ý muốn của Đức Chúa Trời?
Muốn khắc phục, bạn theo gương ai?

 


" Truyền giáo ở Lystra và Derbe"

*** Người què được chữa lành ở Lystra: câu 7-10

 

" Nơi thành Lít-trơ có một người liệt chân, què từ lúc mới sanh ra, chẳng hề đi được. 9 Người ngồi và nghe Phao-lô giảng. Phao-lô chăm mắt trên người, thấy có đức tin để chữa lành được, 10 bèn nói lớn tiếng rằng: Ngươi hãy chờ dậy, đứng thẳng chân lên. Người nhảy một cái, rồi đi."

 

Phao-lô và Ba-na-ba khi đến Lystra đã làm nhiều phép lạ, một trong số đó được ghi lại trong đoạn Kinh Thánh nầy. Tuy nhiên, họ không đi rao giảng với tư cách là những người làm phép lạ. Trọng tâm của họ luôn là rao giảng Phúc âm về Chúa Giê su.


Có một người đàn ông què, khi nghe Phao-lô giảng về Chúa Giê-su, thì ông tin. Phao-lô trong lòng đã muốn chữa cho người nầy, nên Phao lô chăm chú quan sát người què, khi thấy người nầy có đức tin để được chữa lành thì Phao lô mới lên tiếng. Có điều gì đó trong đức tin của người đàn ông này đã thể hiện rất rõ ràng, và rất có thể Chúa đã ban cho Phao-lô ân tứ phân định, đến nỗi Phao-lô biết rằng Chúa muốn chữa lành cho người đàn ông ngay lúc đó.


Một đầy tớ Chúa đầy dẫy Đức Thánh Linh, sẽ được Ngài bày tỏ rất nhiều điều để hổ trợ trong công tác của ông.

Phao lô trong Cô rinh tô I đoạn 5: 3 -5 nói rằng dù ông không có mặt ở tại Hội thánh Cô rinh tô, Chúa vẫn cho ông biết trong Hội Thánh đó có những tín hữu phạm tội dâm loạn.

 

" Về phần tôi, thân dầu xa cách mà lòng ở tại đó, (vì anh em và lòng tôi được hội hiệp với quyền phép của Đức Chúa Jêsus, là Chúa chúng ta), 4 nên tôi đã dường như có mặt ở đó, nhơn danh Đức Chúa Jêsus là Chúa chúng ta, tuyên án kẻ phạm tội đó 5 rằng, một người như thế phải phó cho quỉ Sa tan, để hủy hoại phần xác thịt, hầu cho linh hồn được cứu trong ngày Đức Chúa Jêsus."

 

Trong Kinh Thánh, ân tứ phân định ( the gift of discernment ) không chỉ được ban cho các tôi tớ Chúa, nhưng có cả các Tín đồ.

Đó là một ân tứ thuộc linh từ Đức Thánh Linh, cho phép Tín đồ phân biệt giữa các thần linh. Ân tứ này giúp xác định nguồn gốc thiêng liêng của một thông điệp hoặc hành động, phân biệt sự hiện diện của điều ác và hiểu được chân lý của Lời Chúa.


Đây là một công cụ mạnh mẽ để định hướng thế giới tâm linh, đảm bảo tín đồ không bị lừa dối bởi các thần linh hoặc giáo lý sai lầm.
Ân tứ nầy được sứ đồ Phao lô liệt kê trong sách Cô rinh tô I: 12: 10 & 11

" Người thì được làm phép lạ; kẻ thì được nói tiên tri; người thì được phân biệt các thần; kẻ thì được nói nhiều thứ tiếng khác nhau, người thì được thông giải các thứ tiếng ấy. 11 Mọi điều đó là công việc của đồng một Đức Thánh Linh mà thôi, theo ý Ngài muốn, phân phát sự ban cho riêng cho mỗi người."

 

Việc Phao lô cảm nhận rằng người què có đức tin để được chữa lành, được thể hiện rỏ ràng qua sự vâng lời của người ấy, dù biết mình bị liệt hai chân từ khi mới sinh ra, chưa bao giờ ông nghĩ mình có thể đứng dậy được, thế mà khi Phao lô phán bảo, ông liền làm theo và còn nhảy rồi đi.

Chúng ta nhớ lại Chúa Giê su vẫn thường nói, đức tin con đã cứu con là như vậy. Có những trường hợp ngoại lệ, người ta vì không hiểu biết, hay vì chẳng tin, nhưng phần lớn Đức Tin là mấu chốt để được chữa lành.

 

*** Dân chúng tôn vinh Phao lô và Ba na ba như một vị Thần Hy lạp: Câu 11-13

" Dân chúng thấy sự Phao-lô đã làm, thì kêu lên bằng tiếng Li-cao-ni rằng: Các thần đã lấy hình loài người mà xuống cùng chúng ta. 12 Chúng bèn xưng Ba-na-ba là thần Giu-bi-tê, còn Phao-lô là thần Mẹt-cu-rơ, vì là người đứng đầu giảng đạo. 13 Thầy cả của thần Giu-bi-tê có miếu nơi cửa thành, đem bò đực và tràng hoa đến trước cửa, muốn đồng lòng với đoàn dân dâng một tế lễ."

Chính trong đoạn Kinh Thánh nầy chỉ ra rằng: Phép lạ chỉ thu hút sự chú ý theo cách của loài người, đó là sự chú ý mà Tin lành không mong muốn. Bản thân phép lạ không cứu được ai, nhưng chính Lẽ thật mới đem đến sự cứu rỗi.

Sau khi thấy người bại liệt từ thuở mới sinh được Phao lô chữa lành, dân chúng gọi Ba-na-ba là Zeus, và Phao-lô là Hermes.

Trong thần thoại Hy Lạp, các vị thần thường xuống trần gian dưới hình dạng con người, mặc dù không phải lúc nào họ cũng làm vậy vì lợi ích của con người.


Người dân Lystra có một truyền thuyết kể rằng, khi xưa, có lần Zeus và Hermes đến thăm vùng đất của họ, cải trang thành người phàm, và không ai chào đón họ ngoại trừ một cặp vợ chồng già. Trong cơn thịnh nộ với người dân, Zeus và Hermes đã tiêu diệt toàn bộ dân chúng, ngoại trừ cặp vợ chồng đó.

Câu chuyện hoang đường giúp giải thích, tại sao người Lystria lại nhanh chóng tôn vinh Phao-lô và Ba-na-ba như vậy.

Người ta gọi Phao lô là Hermes ( Mẹc cu rơ), sứ giả của các vị thần, vì Phao lô truyền sứ điệp, là người phát ngôn chính, còn Ba-na-ba xem bề ngoài có vẻ uy nghiêm, nên họ coi ông như thần Zeus ( Giu bi tê)

Tại đó có một cái đền thờ thần Zeus, cả đám đông xúm nhau quỳ lạy hai sứ đồ, đem tràng hoa choàng lên con bò đực để sẽ giết làm của tế lễ, dâng lên cho hai ông Thần nầy.

Lòng tôn sùng của họ đối với Phao-lô và Ba-na-ba tăng lên vì họ ca ngợi họ bằng tiếng Lycaonian. Việc đám đông sử dụng tiếng Lycaonian giải thích tại sao Phao-lô và Ba-na-ba không nắm bắt được tình hình, cho đến khi họ đem bò đực ra làm nghi lễ tế thần thì hai ông mới biết mọi chuyện đã đi quá xa, không phải để chào đón khách khứa mới đến thành phố.

Trong hoàn cảnh như thế, không thể nói Tin lành bị tấn công, nhưng chắc hẳn trong lòng chúng ta thấy xót thương cho đoàn dân đông bị mù loà, tăm tối, thường sống trong một thế giới của bao nhiêu thần giả dối.

 

*** Phao lô kêu gọi đám đông, hãy nhìn nhận Đức Chúa Trời,  chớ thờ lạy hai ông như vị Thần: Câu 14 -18

 

" Nhưng hai sứ đồ là Ba-na-ba và Phao-lô hay điều đó, bèn xé áo mình, sấn vào giữa đám đông, mà kêu lên rằng: 15 Hỡi các bạn, sao làm điều đó? Chúng ta chỉ là loài người giống như các ngươi; chúng ta giảng Tin Lành cho các ngươi, hầu cho xây bỏ các thần hư không kia, mà trở về cùng Đức Chúa Trời hằng sống, là Đấng đã dựng nên trời, đất, biển, và muôn vật trong đó. 16 Trong các đời trước đây, Ngài để cho mọi dân theo đường riêng mình, 17 dầu vậy, Ngài cứ làm chứng luôn về mình, tức là giáng phước cho, làm mưa từ trời xuống, ban cho các ngươi mùa màng nhiều hoa quả, đồ ăn dư dật, và lòng đầy vui mừng. 18 Tuy sứ đồ nói như vậy, chỉ vừa đủ ngăn trở dân chúng dâng cho mình một tế lễ."

** Phao lô và Ba na ba xé áo mình:


Hai ông làm vậy để chứng tỏ mình hoàn toàn là con người, giống như mọi người dân Lystria. Họ xé áo cũng vì phản ứng theo bản năng Do Thái đối với sự phạm thượng. Đối với Phao-lô và Ba-na-ba, việc họ bị gọi là thần không chỉ làm khó chịu; mà đó còn là sự phạm thượng.

Phao lô đã thẳng thắn kêu gọi: Anh em hãy xây bỏ các thần hư không, mà trở về cùng Đức Chúa Trời hằng sống...

Đây là những lời mạnh mẽ của Phao-lô dành cho những người coi trọng việc thờ phượng ngoại giáo, mặc dù đang đối diện với đám người đang bị kích động vì lý do tôn giáo, nhưng Phao-lô không ngại đối chất với họ rằng việc thờ hình tượng của họ là sai trái.

Phao-lô kêu gọi đám đông người Lystria suy ngẫm về Đức Chúa Trời, là Đấng Tạo hoá, chứ không phải một trong những vị thần Hy Lạp chỉ trong trí tưởng tượng mà thôi. Chính Đức Chúa Trời mới là Đấng giáng phước cho, làm mưa từ trời xuống, ban cho mùa màng, hoa quả, đồ ăn dư dật, và lòng đầy vui mừng chứ không phải Thần Giu pi tê của họ.

 

Phao-lô không giảng cho những người ngoại giáo này theo cùng một cách mà ông giảng cho người Do Thái, thay vào đó, ông kêu gọi sự nhận biết, đến từ mắt thấy, tai nghe, hằng ngày trong thiên nhiên, ngay cả một người ngoại giáo cũng có thể hiểu được rằng có bàn tay của Đấng Tạo hoá.

 

Phao lô và Ba na ba đã rất khó khăn để ngăn cản họ dâng tế lễ cho hai ông. Quả thật, vô cùng khó khăn để dẹp bỏ những quan niệm sai lầm về Đức Chúa Trời của người Lystria.

 

*** Phao lô và Ba na ba bị hành hung: câu 19 & 20

" Bấy giờ có mấy người Giu-đa từ thành An-ti-ốt và thành Y-cô-ni đến dỗ dành dân chúng; chúng ném đá Phao-lô, tưởng người đã chết, nên kéo ra ngoài thành. 20 Nhưng các môn đồ đang nhóm chung quanh người, thì người vùng đứng dậy và vào trong thành. Bữa sau, người đi với Ba-na-ba đến thành Đẹt-bơ."

Những người Giu đa từ thành An-ti-ốt và thành Y-cô-ni kéo đến để chống đối Phao lô và Ba na ba, chứng tỏ họ đã kết hợp với nhau thành một lực lượng không chỉ ngăn trở hai ông nhưng có mục đích giết chết. Những kẻ nầy đã đi hơn một trăm dặm chỉ để làm khổ Phao-lô và Ba na ba. Họ là những kẻ thù trung thành của hai sứ đồ.


Đến đây, chúng ta thấy tình hình nầy chẳng khác gì lúc Chúa Giê su ở Giê ru sa lem. Người ta không bắt chước nhưng nó giống nhau vì chỉ có một kẻ chủ mưu đứng đằng sau là Sa tan, Tin lành đi đến đâu thì Sa tan cũng theo đến đó, nhưng Kinh Thánh cho hay, nó không thắng hơn được Tin Lành.

 

Những người Giu đa nầy biết lợi dụng sự ngu dốt của dân ngoại, họ thuyết phục đám đông chống lại Phao-lô và Ba-na-ba,chẳng những vậy, họ còn xúi giục người ta ném đá giết chết Phao-lô và Ba-na-ba –Bởi chính những người muốn thờ phượng hai ông trước đó không lâu. Đám đông có thể dễ thay đổi. Sự ngưỡng mộ của họ đối với phép lạ và mong muốn tôn vinh hai ông như những vị thần không còn nữa.

Cả người Giu đa chống đối và dân ngoại hung hãn ném đá Phao-lô và lôi ông ra khỏi thành, bon họ tưởng ông đã chết. Tuy nhiên, khi các môn đồ tin Chúa tụ tập xung quanh ông, ông đã đứng dậy và đi vào thành: Phao-lô đã được bảo toàn một cách kỳ diệu tại đây. Một số người cho rằng ông thậm chí đã thực sự bị giết, nhưng được sống lại, bởi vì ném đá thường là một hình thức hành quyết đáng ít khi sơ sót.


Trong hoàn cảnh đối diện với nan đề và thử thách, các anh em đồng đức tin chính là nguồn an ủi, cứu giúp mà Chúa đã đặt kế bên chúng ta. Họ giúp đỡ, cầu nguyện, thậm chí bảo vệ, chăm sóc.
Kinh Thánh không nói nhiều, chỉ nói khi các môn đồ vây quanh thì Phao lô tỉnh dậy rồi đi trở vào thành.

Sau nầy trong thư Ga la ti 6: 17 Phao lô viết:


"Tôi mang trong thân thể mình những dấu vết của Chúa Giê-su"


Có thể ông đã nhớ đến những vết sẹo từ sự việc này. Khi so sánh mình với những tôi tớ khác, Phao lô đã kể rằng:

" Họ là kẻ hầu việc của Đấng Christ phải chăng? Ừ, tôi nói như kẻ dại dột, tôi lại là kẻ hầu việc nhiều hơn! Tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn, tù rạc nhiều hơn, đòn vọt quá chừng. Đòi phen tôi gần phải bị chết; 24 năm lần bị người Giu-đa đánh roi, mỗi lần thiếu một roi đầy bốn chục; 25 ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị chìm tàu. Tôi đã ở trong biển sâu một ngày một đêm. 26 Lại nhiều lần tôi đi đường nguy trên sông bến, nguy với trộm cướp, nguy với giữa dân mình, nguy với dân ngoại, nguy trong các thành, nguy trong các đồng vắng, nguy trên biển, nguy với anh em giả dối; 27 chịu khó chịu nhọc, lắm lúc thức đêm, chịu đói khát, thường khi phải nhịn ăn, chịu lạnh và lõa lồ." Cô rinh tô II đoạn 11: 23 - 27

Sau khi được phục hồi, Phao lô không chạy trốn khỏi thành phố đã ném đá ông, mà lập tức quay về thành, dường như Phao lô muốn trở lại để hoàn tất việc gì đó, hôm sau hai ông mới tới Đẹt bơ. Tại Đẹt bơ Phao lô gặp một thanh niên tên Ti mô thê, Phao lô tin cậy và yêu mến Ti mô thê,như con trai của mình, Công vụ 16 : 1

" Phao-lô tới thành Đẹt-bơ và thành Lít-trơ. Nơi đó, có một môn đồ tên là Ti-mô-thê, con của một người đàn bà Giu-đa đã tin, còn cha thì người Gờ-réc."

 

*** Phao lô truyền giảng ở Đẹt bơ nhưng cũng săn sóc các nhóm ở ba nơi trước: câu 21 -23

 

" Khi hai sứ đồ đã rao truyền Tin Lành trong thành đó, và làm cho khá nhiều người trở nên môn đồ, thì trở về thành Lít-trơ, thành Y-cô-ni và thành An-ti-ốt, 22 giục các môn đồ, vững lòng, khuyên phải bền đổ trong đức tin, và bảo trước rằng phải trải qua nhiều nỗi khó khăn mới vào được nước Đức Chúa Trời. 23 Khi hai sứ đồ khiến lựa chọn những trưởng lão trong mỗi Hội thánh, cầu nguyện và kiêng ăn xong, thì dâng các người đó cho Chúa là Đấng mình đã tin đến."

 

Sau khi Phao lô và Ba na ba rao giảng Tin Lành cho thành phố Đẹt bơ, làm cho nhiều người trở thành môn đồ thì hai ông lại can đảm trở về Lít-trơ, Y cô ni và An ti ốt, để bảo đảm rằng công việc của Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục ở đó.

 Hai ông không chỉ giảng đạo, nhưng còn có tâm tình chăm sóc, khích lệ, đào tạo các môn đồ để họ trở thành một lực lượng lớn mạnh, hầu tiếp tục công việc Chúa ở mỗi nơi. Niềm đam mê đào tạo các môn đồ là trái tim có được từ Đức Thánh Linh, Đấng được diễn tả luôn ở cùng các Hội thánh và làm cho Hội Thánh được đứng vững vàng.

Trong khi ở với các môn đồ, Phao lô nói với rằng: Chúng ta phải trải qua nhiều hoạn nạn mới vào được vương quốc Đức Chúa Trời: Đây là sứ điệp đã giúp củng cố và khích lệ các môn đồ. Một sứ điệp đơn giản, được chứng minh qua kinh nghiệm của mình, Phao-lô có thể rao giảng cách xác quyết vì chính ông đã sống sứ điệp đó. Hoạn nạn là một điểm quan trọng không thể bỏ qua khi thực hiện sứ mạng của Tin lành.

Từ những thử thách không thể tránh được lúc ban đầu, Phao lô và Ba na ba đã tự mình lựa chọn các Trưởng Lão cho từng Hội thánh, kiêng ăn, cầu nguyện cho họ và dâng họ lên Chúa để Chúa bảo vệ và dùng họ cho Hội Thánh. Quả thật hai ông đã làm công việc Chúa rất chu đáo, bằng cả tấm lòng.


Do đó, Phao-lô và Ba-na-ba đã bảo đảm, không chỉ tạo ra những Cơ Đốc nhân mới, mà còn thành lập các hội thánh mới, nơi những Cơ Đốc nhân mới này có thể phát triển và được vững mạnh trong Chúa.

Hơn ai hết, Phao-lô và Ba-na-ba đã ý thức rõ về sự hiện diện và quyền năng của Đức Thánh Linh trong các cộng đồng tín hữu. Hai ông sau khi cố gắng hoàn thành về mặt tổ chức thì giao phó họ lại cho Chúa, Chúa sẽ hướng dẫn họ và Chúa sẽ đem người đến dạy dỗ họ. Hai ông tin cậy Chúa vì hai ông biết Hội Thánh thuộc về Chúa.

 

*** Truyền giáo trên đường trở về: câu 24 - 28

 

" Kế đó, hai sứ đồ vượt qua đất Bi-si-đi, đến trong xứ Bam-phi-ly. 25 Sau khi đã truyền đạo tại thành Bẹt-giê rồi, thì xuống thành Át-ta-li. 26 Từ nơi đó, hai người chạy buồm về thành An-ti-ốt, là chỗ mình đã ra đi, được giao phó cho ân điển Đức Chúa Trời, để làm công việc mình vừa mới làm xong. 27 Hai người đến nơi, nhóm họp Hội thánh rồi, bèn thật lại mọi việc Đức Chúa Trời đã cậy mình làm, và Ngài mở cửa đức tin cho người ngoại là thể nào. 28 Hai người ở tại đó lâu ngày với các môn đồ."

 

Sau khi đến Đẹt bơ và Lít trơ thì Phao lô và Ba na ba trở về nơi xuất phát, hai ông đi trở lại con đường cũ, nhưng không dừng lại ở đảo Síp, mà đi thuyền đến Antioch, trở về hội thánh quê nhà.
Đây chỉ là chuyến hành trình truyền giáo đầu tiên trong nhiều chuyến đi khác, mặc dù sứ mệnh trước mắt xem như đã hoàn thành, nhưng công việc tại các hội thánh mới vẫn chưa bao giờ kết thúc.

Hai ông đã thuật lại những gì đã xảy ra, làm chứng rằng Đức Chúa Trời đã mở cánh cửa đức tin cho dân ngoại: Thành công của họ trong công cuộc truyền giáo giữa dân ngoại, và ơn phước của Đức Chúa Trời ban cho, để mọi người thấy những gì Đức Chúa Trời làm ở Antioch không phải là duy nhất. nhưng Ngài muốn lan rộng trên toàn thế giới.

Khi nói về công việc Chúa tại các nơi Phao lô và Ba na ba đi qua, Lu ca luôn dùng động từ ở thì " chưa hoàn thành" nhưng dù gặp nhiều trở ngại, hai sứ đồ đã tỏ ra rất kiên trì, hai ông không hề lui bước, họ sẽ tiếp tục thực hiện những chuyến truyền giáo tiếp theo.

Trong Phi líp 3: 12 -14 Phao lô tâm sự rằng, ông không khi nào nghĩ rằng ông hoàn thành được công việc Đức Chúa Trời kêu gọi, nhưng lúc nào ông cũng cố gắng:

" Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu, nhưng tôi đang chạy hầu cho giựt được, vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi. 13 Hỡi Anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, 14 nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ. "