CV 16: " Người Tin đạo đầu tiên ở Châu Âu là một phụ nữ"

**Dân Tộc Việt **Các Phương Tiện zoom

" V́ về anh em, tôi rất sốt sắng như sự sốt sắng của Đức Chúa Trời, bởi tôi đă gả anh em cho một chồng mà thôi, dâng anh em như người trinh nữ tinh sạch cho Đấng Christ." II Cô rinh tô 11: 2

Công vụ 16: " Người Tin đạo đầu tiên ở Châu Âu là một phụ nữ"

 

Đọc Công vụ 16: 11 - 40

 

Câu hỏi:

 

1/ Là một phụ nữ, bạn có cảm xúc nào khi đọc câu chuyện của bà Ly đi?
Vì sao các bà phải nhóm họp ở bờ sông?

 

2/ Tại sao quỷ lại đi quảng bá cho Phao lô và Si la?
Tại sao Phao lô cực lòng?

 

3/ Trận động đất dành cho ai?
Vì sao Chúa dường như quá mất công cho một người gian ác?

 

"Truyền giáo tại thành Phi líp xứ Rô ma"

 

*** Bà Ly đi trở lại đạo: câu 11- 15

 

" Vậy, chúng ta từ thành Trô-ách đi thuyền thẳng đến đảo Sa-mô-tra-xơ; bữa sau, đến thành Nê-a-bô-li; 12 từ nơi đó, chúng ta tới thành Phi-líp, là thành thứ nhất của tỉnh Ma-xê-đoan, và là thuộc địa nước Rô-ma. Chúng ta ở tạm đó vài ngày. 13 Đến ngày Sa-bát, chúng ta ra ngoài cửa thành, đến gần bên sông, là nơi chúng ta tưởng rằng người ta nhóm lại đặng cầu nguyện; chúng ta ngồi xong, giảng cho những đàn bà đã nhóm lại. 14 Có một người trong bọn đó nghe chúng ta, tên là Ly-đi, quê ở thành Thi-a-ti-rơ, làm nghề buôn hàng sắc tía, vẫn kính sợ Đức Chúa Trời. Chúa mở lòng cho người, đặng chăm chỉ nghe lời Phao-lô nói. 15 Khi người đã chịu phép báp-tem với người nhà mình rồi, thì xin chúng ta rằng: Nếu các ông đã đoán tôi là trung thành với Chúa, thì hãy vào nhà tôi, mà ở lại đó; rồi người ép mời vào."

 

  Trô ách là một cảng biển, nếu đi bằng tàu đến địa phận gần nhất của Châu âu là Nê a bô li, thì tàu qua Biển Aegean, giữa đường, phải ngừng để nghĩ ở đảo Sa mô tra xơ, rồi mới đến Nê a bô li. Từ Nê a bô li, Phao lô đi thẳng đến thành Phi líp thuộc Macedonia, miền bắc Hy Lạp ngày nay.


  Sở dĩ Phao lô đến đây vì khi ở Trô ách, trong đêm, Phao lô mơ thấy một người đàn ông đến từ Macedonia, cầu xin Phao lô đi thuyền qua Biển Aegean và giải cứu người dân Macedonia khỏi con đường tội lỗi của họ.


Tại Phi líp, Phao lô cùng với Si la và Lu ca đã ra ngoài cửa thành, để giảng cho một nhóm các bà đang nhóm lại, không phải trong nhà hội, mà là ở bờ sông.


Việc các phụ nữ Do Thái ở Phi-líp không có nhà hội và thường tụ họp bên bờ sông cho thấy không có nhiều đàn ông Do Thái ở Phi-líp.

Theo luật định, thì nếu có đủ mười người đàn ông Do Thái, họ mới đủ để thành lập một nhà hội. Không có phụ nữ nào có thể bù đắp cho việc thiếu một người đàn ông cần thiết để tạo thành nhóm mười người. Do vậy, trước khi có đủ số đàn ông, thì các bà nhóm ở bờ sông.

Thường khi đoàn truyền giáo hay đến các nhà hội, nhưng chắc có rất ít người Do thái trong vùng nầy, nên Phao lô lại tìm đến nhóm của các bà ở đây. Bà Ly đi là một người bán vải tía, một loại vải màu tím, thời đó vải tím rất đắt đỏ, do thuốc nhuộm màu tím Tyrian, cần phải lấy từ những con ốc biển cực kỳ khó khăn và tốn công sức. Phải mất hàng chục nghìn con ốc mới tạo ra được một gam thuốc nhuộm, khiến nó trở nên quý hiếm đến mức có giá trị hơn cả vàng, và chỉ dành riêng cho hoàng gia và giới thượng lưu.

Bán vải tía là bán một sản phẩm xa xỉ, đắt tiền. Người phụ nữ này là người cải đạo đầu tiên ở châu Âu, người ta có thể mĩm cười, nói rằng người đàn ông đầu tiên ở Ma-xê-đô-ni-a trong giấc mơ của Phao lô hóa ra lại là phụ nữ.

 Một lần nữa, chúng ta thấy rõ sự cứu rỗi không phân biệt nam nữ, quốc tịch hay đẳng cấp. Món quà quý giá từ Chúa Giê su ban cho rộng rãi như chữ " Hễ ai tin" mà Kinh thánh đã dùng. Bởi vậy, với tinh thần đó, Phao lô và Si la là hai người đàn ông Do Thái thực sự, đã không câu nệ mà vẫn đến giảng cho các bà. Sau bài giảng, Bà Ly đi tin nhận Chúa Giê su.

Cũng như đội trưởng Cọt nây, bà Ly đi cũng đã được Đức Chúa Trời biết đến qua nếp sống kính mến Chúa của bà. Chúa đã mở lòng bà để bà lắng nghe những lời Phao-lô nói. Trước khi Ly-đi được cải đạo và làm báp-têm, Chúa đã mở lòng bà. Đây là công việc Đức Chúa Trời thực hiện nơi tất cả những ai tin, bởi vì như Chúa Giê-su đã phán: " Không ai có thể đến với Ta nếu Cha, là Đấng đã sai Ta, không kéo người ấy đến" (Giăng 6:44).


Vì vậy, một yếu tố quan trọng nhất trong công cuộc truyền giáo, là cầu xin Chúa mở lòng người ấy qua lời cầu nguyện, vì nếu không có điều này thì không thể có sự cải đạo đích thực.

Sau khi Ly đi và cả nhà của bà làm phép Báp têm, bà nài nỉ đoàn truyền giáo rằng: “Nếu các ông đã xét đoán tôi là người trung thành với Chúa, thì hãy đến nhà tôi và ở lại.” Ngay lập tức, Ly-đi bắt tay vào việc lành, bà mở lòng đón tiếp tôi tớ Chúa, tấm lòng của bà thật cảm động, tỏ ra sự tin kính của bà đối với Đức Chúa Trời không sai trật.

 

** Quỷ Phi tôn đeo đẳng, làm hại Phao lô: câu 16 - 18

" Một ngày kia, chúng ta đi cầu nguyện, gặp một đứa đầy tớ gái bị quỉ Phi-tôn ám vào, hay bói khoa, làm lợi lớn cho chủ nó. 17 Nó theo Phao-lô và chúng ta, mà kêu la rằng: Những người đó là đầy tớ của Đức Chúa Trời Rất Cao, rao truyền cho các ngươi đạo cứu rỗi. 18 Trong nhiều ngày nó cứ làm vậy, nhưng Phao-lô lấy làm cực lòng, xây lại nói cùng quỉ rằng: Ta nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ mà truyền mầy ra khỏi người đàn bà nầy. Chính giờ đó, quỉ liền ra khỏi."

Có một đầy tớ gái bị quỷ ám mà vẫn có thể làm lợi cho chủ nó, với tư cách là một thầy bói. Có lẽ điều này là do quỷ đã ban cho cô ta những khả năng siêu nhiên, để nhìn thấu cuộc sống của người khác.


Kinh thánh nói đứa đầy tớ bị quỷ Phi tôn ám, tên Phi tôn nầy được dịch ra từ chữ ‘pythona’ là một loài trăn. Nó được sử dụng ở đây vì trăn gắn liền với thần Apollo. Không xa Philippi, ngay tại khu vực này của châu Âu, có một ngôi đền thờ thần Apollo của Pythian. Tương truyền rằng, Apollo, một vị thần Hy Lạp, đã giết con rắn thần thoại Python. Sau khi giết Python tại địa điểm này, Apollo lấy tên là "Pythian", và đền thờ được gọi là Pytho, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là "thối rữa", ám chỉ xác con rắn. Nữ tư tế tối cao của đền thờ được gọi là Pythia.

Ngày nay, phần lớn những gì các thầy bói và nhà ngoại cảm làm, có thể là trò lừa bịp để kiếm tiền. Nhưng khi nó là sự thật, và có nguồn gốc siêu nhiên, thì không còn nghi ngờ gì nữa, rằng nó được truyền cảm hứng từ quỷ dữ. Ngày nay vẫn còn những người bị quỷ ám như thế.

Kinh thánh cho biết, ma quỷ không thể nắm được tương lai của một người, nhưng nó quỷ quyệt, nó có thể dự đoán được hành vi của họ.

Đứa đầy tớ nầy đi theo đoàn của Phao-lô, cứ kêu lên rằng: “Những người này là tôi tớ của Đức Chúa Trời Tối Cao, rao giảng cho chúng ta con đường cứu rỗi.” Đứa gái nô lệ bị quỷ ám đã quảng bá giùm cho Phao-lô, làm chứng về uy tín thần thánh và sứ điệp của Phao lô bằng lời lẽ ma quỷ.

Nó không chỉ làm điều này một lần, mà trong nhiều ngày. Nếu nó làm như thế thì có lý do gì mà đoàn phản đối nó?

Nhưng Phao-lô rất bực mình: Phao-lô không thích sự quảng cáo miễn phí từ ma quỷ. Ông không thích nguồn gốc của lời giới thiệu, và ông không cần sự chấp thuận của ma quỷ đối với công việc của mình.

Phao-lô biết rằng ma quỷ đã nhận ra ông, nó cũng đang nhận ra công việc ông làm, nhưng nó đến để phá hoại, Phao lô không cần sự giới thiệu của ma quỷ. Về điểm này, Phao-lô giống như Chúa Giê-su, Đấng thường bảo ma quỷ im lặng, ngay cả khi chúng nói sự thật về Ngài Mác 3:11-12

" Khi tà ma thấy Ngài, bèn sấp mình xuống nơi chân Ngài mà kêu lên rằng: Thầy là Con Đức Chúa Trời! 12 Song Ngài nghiêm cấm chúng nó chớ tỏ cho ai biết mình."

Đâu có ai biết ma quỷ lên tiếng, nó nói tương tự như kẻ tin, nhưng người được đầy dẫy Thánh Linh như Phao lô, biết đó là tà linh lên tiếng. Phao lô đã nhân danh Chúa Giê su mà bắt nó ra khỏi đứa đầy tớ. Có lẽ, quỷ đã xử dụng đứa đầy tớ trong một thời gian dài, chủ nó không cực lòng, vì họ được lợi, nhưng Phao lô cực lòng, vì nó lộng hành, đang huỷ diệt không chỉ một đứa gái, mà còn cả nhiều người xung quanh nó. Phao lô đã ra lệnh với chính con quỷ bằng thẩm quyền của Chúa Giê-su và con quỷ đó lìa đứa gái ngay lập tức.

 

*** Phao-lô và Si-la bị bắt, bị đánh đập, bỏ tù vì giải cứu đứa gái bị quỷ ám: câu 19 - 24

" Song le các chủ nàng thấy mình chẳng còn trông được lợi lộc nữa, bèn bắt Phao-lô và Si-la, kéo đến nơi công sở, trước mặt các quan, 20 rồi điệu đến các thượng quan, mà thưa rằng: Những người nầy làm rối loạn thành ta; ấy là người Giu-đa, 21 dạy dỗ các thói tục mà chúng ta chẳng nên nhận lấy, hoặc vâng theo, vì chúng ta là người Rô-ma. 22 Đoàn dân cũng nổi lên nghịch cùng hai người, và khi các thượng quan khiến xé áo hai người ra rồi, bèn truyền đánh đòn. 23 Sau khi người ta đánh nhiều đòn rồi, thì bỏ vào ngục, dặn người đề lao phải canh giờ cho nghiêm nhặt. 24 Được lịnh đó, đề lao bỏ hai người vào ngục tối và tra chân vào cùm."

Chủ của đứa gái thấy hy vọng kiếm lời đã tan biến, người ấy chẳng quan tâm gì đến bản thân đứa gái, chỉ quan tâm đến khả năng kiếm tiền của nó. Họ là những “ma cô” huyền bí, dụ dỗ về mặt tâm linh. Họ thưa với chính quyền để bắt Phao-lô và Si-la.


Phao-lô và Si-la bị nhắm đến, không chỉ vì họ là những người lãnh đạo nhóm truyền giáo, mà còn bởi vẻ ngoài của họ, rõ ràng là người Do Thái. Có lẽ người Do Thái bị khinh miệt và bị bạc đãi ở đây, điều này được thể hiện qua cách họ bắt đầu lời buộc tội: “Những người này là người Do Thái.”


Phao-lô và Si-la trông giống người Do Thái, và tâm lý bài Do Thái đã rất rõ ràng từ thời cổ đại trong vòng dân ngoại. Chứng tỏ số người Do Thái ở Phi líp cũng rất ít.

Bọn họ tố cáo Phao lô và Si la gây rối loạn thành phố của họ; dạy những phong tục khác với La Mã... Những lời buộc tội của họ rất mơ hồ, chỉ đơn giản là cáo buộc Phao-lô và Si-la là những kẻ gây rối. Nhưng những lời buộc tội mơ hồ đó đã đủ, bởi vì cả đám đông lẫn các quan tòa đều có thành kiến ​​với ngoại hình Do Thái của Phao lô, và họ cho rằng Phao-lô và Si-la không phải là công dân La Mã.

 Trong Đế chế La Mã, có hai luật lệ rất khác nhau: một dành cho công dân của Đế chế La Mã, và một dành cho những người không phải là công dân. Công dân La Mã có những quyền công dân cụ thể, được bảo vệ nghiêm ngặt. Người không phải công dân không có quyền công dân, và phải chịu sự chi phối của cả đám đông lẫn các quan tòa.


Vì họ cho rằng Phao-lô và Si-la không phải là công dân La Mã, nên họ cảm thấy bị xúc phạm, khi những người đàn ông Do Thái này quấy rối công dân La Mã bằng tôn giáo kỳ lạ của họ, về một Đấng Cứu Thế bị đóng đinh. Các quan tòa cho rằng những người như vậy cần được dạy dỗ để biết vị trí của mình thấp kém, không làm phiền những người có địa vị cao hơn.

Sau khi bị đánh đòn nhiều lần, chính quyền tống giam họ vào ngục, ở đó Phao-lô và Si-la bị giam giữ trong điều kiện an ninh tối đa, quan trên ra lệnh cho cai ngục canh giữ họ cùm chân trong ngục tối.


Sau này, Phao-lô viết về cuộc đời mình: “Công việc càng nhiều, đòn roi quá mức, tù tội thường xuyên hơn, và thường xuyên bị giết chết.” (2 Cô-rinh-tô 11:23 - 27

"Họ là kẻ hầu việc của Đấng Christ phải chăng? Ừ, tôi nói như kẻ dại dột, tôi lại là kẻ hầu việc nhiều hơn! Tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn, tù rạc nhiều hơn, đòn vọt quá chừng. Đòi phen tôi gần phải bị chết; 24 năm lần bị người Giu-đa đánh roi, mỗi lần thiếu một roi đầy bốn chục; 25 ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị chìm tàu. Tôi đã ở trong biển sâu một ngày một đêm. 26 Lại nhiều lần tôi đi đường nguy trên sông bến, nguy với trộm cướp, nguy với giữa dân mình, nguy với dân ngoại, nguy trong các thành, nguy trong các đồng vắng, nguy trên biển, nguy với anh em giả dối; 27 chịu khó chịu nhọc, lắm lúc thức đêm, chịu đói khát, thường khi phải nhịn ăn, chịu lạnh và lõa lồ."

 

Chúng ta đã hy sinh tới đâu? Phục vụ Chúa đến mực nào? Đọc được những dòng chữ nầy của Phao lô, chắc lòng chúng ta cảm động mà hổ thẹn khi cho rằng mình đã hy sinh nhiều cho công việc Chúa.

 

*** Trận động đất trong tù: câu 25 - 29

" Lối nữa đêm, Phao-lô và Si-la đang cầu nguyện, hát ngợi khen Đức Chúa Trời; và những tù phạm đều nghe. 26 Thình lình, có cơn động đất rất lớn, đến nỗi nền ngục rúng động; cùng một lúc, các cửa mở ra, xiềng tù phạm thảy đều tháo cả. 27 Người đề lao giựt mình thức dậy, thấy các cửa ngục đều mở, tưởng tù đã trốn hết, bèn rút gươm, toan giết mình. 28 Nhưng Phao-lô kêu người lớn tiếng rằng: Chớ làm hại mình; chúng ta đều còn cả đây. 29 Người đề lao bèn kêu lấy đèn, chạy lại, run sợ lắm, gieo mình nơi chân Phao-lô và Si-la."

 

 Dù bị đòn roi rất đau đớn, đến nửa đêm, Phao-lô và Si-la vẫn cầu nguyện và hát thánh ca ngợi khen Đức Chúa Trời. Hoàn cảnh không làm cho hai ông chùn bước để oán trách Chúa, nhưng Phao-lô và Si-la vẫn tràn đầy niềm vui và hát ngợi khen Đức Chúa Trời. Dường như không gì có thể ngăn cản họ ca ngợi Đức Chúa Trời. Bình an thực sự chỉ đến từ bên trong, và là một món quà dành cho Cơ Đốc nhân mọi lúc. “Thay vì nguyền rủa loài người, họ đã chúc tụng Đức Chúa Trời.”

 Bài hát của họ được các tù nhân khác nghe thấy, thật là một sự lạ lùng, chưa ai từng nghe kẻ bị đánh đập, giam cầm lại hát ngợi khen Chúa mình như thế. Tức thì một trận động đất lớn xảy ra, trận động đất này không phải ngẩu nhiên. Vì tất cả các cửa đều mở, và xiềng xích của mọi người đều được tháo bỏ.


Cai ngục đã muốn tự tử: Người cai ngục làm vậy vì một lý do chính đáng. Theo luật pháp La Mã, những lính canh nào để tù nhân trốn thoát, sẽ phải chịu hình phạt dành cho tù nhân trốn thoát. Biết được điều này, Phao-lô đã lớn tiếng nói rằng:

   “Đừng làm hại mình, vì chúng tôi đều ở đây cả.”

 Ông đảm bảo với người cai ngục rằng không ai trốn thoát. Phao-lô và Si-la có thể dễ dàng trốn trong lúc đó, vì nghĩ rằng Chúa đã ban cho họ một cơ hội để vượt ngục kỳ diệu lần nữa. Nhưng trong lòng Phao lô, Đức Thánh Linh đang mách bảo cho ông một điều khác, đó là nhà cai ngục của thành Phi líp.

Khi biết Phao lô và Si la không trốn thoát, cai ngục chạy vào, run rẩy sấp mình xuống trước mặt Phao-lô và Si-la, ông bị ảnh hưởng bởi tình yêu thương và ân điển mà Phao-lô và Si-la thể hiện hơn là trận động đất. Ông ta có thể là người lính canh đã đánh Phao lô và Si la vài giờ trước đó.

 

*** Cai ngục và cả nhà tin nhận Chúa Giê su: câu 30 - 34

" Đoạn, đưa hai người ra ngoài, mà hỏi rằng: Các chúa ơi, tôi phải làm chi cho được cứu rỗi? 31 Hai người trả lời rằng: Hãy tin Đức Chúa Jêsus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi. 32 Hai người truyền đạo Đức Chúa Trời cho người, và cho những kẻ ở nhà người nữa. 33 Trong ban đêm, chính giờ đó, người đề lao đem hai người ra rửa các thương tích cho; rồi tức thì người và mọi kẻ thuộc về mình đều chịu phép báp-tem. 34 Đoạn, người đề lao mời hai người lên nhà mình, đặt bàn, và người với cả nhà mình đều mừng rỡ vì đã tin Đức Chúa Trời."

 

** Tôi phải làm gì để được cứu?
Người cai ngục rất ấn tượng với Phao-lô và Si-la – bởi tình yêu thương mà họ dành cho ông, và bởi khả năng tìm thấy niềm vui ngay cả trong đau khổ của họ, đến nỗi ông lập tức muốn có được cuộc sống như Phao-lô và Si-la.

     Cơ Đốc nhân nên khiến người khác muốn có những gì chúng ta có với Chúa.


Giữa đêm, cai ngục đem họ đi rửa sạch vết thương, băng bó và dọn thức ăn cho họ. Điều này cho thấy cai ngục đã ăn năn, và noi theo gương yêu thương của Phao-lô và Si-la. Người đàn ông này đã được đưa từ nỗi sợ hãi, muốn tự tử, đến niềm vui tràn ngập chỉ trong vài phút. Đức Thánh Linh đã sử dụng mọi hoàn cảnh để đưa người đến với Ngài.

Cai ngục hỏi Phao lô và Si la: " Tôi phải làm gì để được cứu?

" Hãy tin vào Chúa Giê-su Christ, ông và nhà ông sẽ được cứu"

Câu trả lời của Phao-lô cho người cai ngục là một tuyên bố căn bản và đơn giản về bản chất của phúc âm. Đây là sự cứu rỗi chỉ bởi ân điển, được nhận lãnh chỉ bởi đức tin.


 Chẳng những bản thân người cai ngục, Phao lô còn nói rằng ông và cả nhà ông nữa. Dưới sự soi dẫn của Đức Thánh Linh, Phao-lô đã nói với người cai ngục rằng gia đình ông sẽ tin cậy Chúa Giê-su giống như ông đã tin cậy.


  Không phải gia đình người cai ngục được cứu, chỉ vì ông được cứu; Phao-lô đã đến và rao giảng lời Chúa cho tất cả những người trong nhà ông. Tất cả họ đều được cứu, bởi vì họ đều tin cậy lời Đức Chúa Trời và Chúa Giê-su, phán qua môi miệng Phao lô.

     Lời hứa một người tin, cả nhà được cứu, giúp chúng ta tin cậy Ngài để cứu rỗi gia đình mình.


Cơn động đất có ý nghĩa gì khi Phao lô và Si la không thoát đi?

 Điều siêu nhiên xảy ra, chỉ vì một con người gian ác trong đó, người cai ngục - Đức Chúa Trời thấy bà Ly đi, người tin kính, Đức Chúa Trời cũng có thấy Cai ngục, kẻ phục vụ trong một guồng máy gian ác, có lòng tin nhận Ngài ngay lập tức, khi biết được sự kêu gọi của Ngài. Đức Chúa Trời không bỏ sót ai, trong đó có chúng ta.

*** Phao lô và Si la được thả ra và rời thành Phi líp; câu 35 -40

" Đến sáng, thượng quan sai lính nói cùng người đề lao rằng: Hãy thả các người ấy đi. 36 Người trình lời đó cùng Phao-lô rằng: Các thượng quan đã khiến truyền cho tôi thả các ông; vậy, hãy ra, và xin đi cho bình yên. 37 Nhưng Phao-lô nói cùng lính rằng: Chúng ta vốn là quốc dân Rô-ma, khi chưa định tội, họ đã đánh đòn chúng ta giữa thiên hạ, rồi bỏ vào ngục; nay họ lại thả lén chúng ta ư! Điều đó không được. Chính các quan phải tới đây mà thả chúng ta mới phải! 38 Các thượng quan nghe lính trình lại bấy nhiêu lời, biết hai người đó là người Rô-ma, thì sợ hãi. 39 Họ bèn đến nói với hai người, thả đi, và xin lìa khỏi thành. 40 Khi ra ngục rồi, hai sứ đồ vào nhà Ly-đi, thăm và khuyên bảo anh em, rồi đi."

** Hãy thả các người ấy đi: Việc bắt người đánh đập, giam giữ một đêm rồi thả ra, là cách chính quyền địa phương muốn hù doạ ai đó. Lý do họ bắt người không chính đáng, nên có thể không làm thành án được để trình lên cấp trên, tốt nhất là thả ra.

Phao lô đã bắt bẻ chính quyền đánh đập hai ông công khai, vì hai ông là những người La Mã chưa bị kết án.

Phao-lô và Si-la là công dân La Mã, họ được công nhận quyền công dân, nhưng các quan tòa Phi-líp đã vi phạm khi làm những hành vi ấy. Quan tòa vô cùng sợ hãi, bởi vì đối xử với công dân La Mã như Phao-lô và Si-la đã bị đối xử là một tội nghiêm trọng. Họ đến, nài nỉ, đưa Phao lô và Si la ra ngoài và yêu cầu họ rời khỏi thành phố. Các quan tòa hành động như các chính trị gia thường hành động. Họ cố gắng giải quyết vấn đề một cách lặng lẽ bằng cách che giấu nó.

Tại sao Phao-lô và Si-la không tiết lộ quốc tịch La Mã của họ sớm hơn? Có thể họ không có cơ hội, nhưng có nhiều khả năng là Đức Thánh Linh đã chỉ dẫn họ không tiết lộ điều đó cho đến một thời điểm nhất định để cứu cai ngục và cả nhà ông.

Phao-lô và Si-la không vội vã rời khỏi thành phố, cho đến khi họ khích lệ và khuyên bảo những người mới tin Chúa. Tại Phi-líp, Phao-lô và Si-la để lại hai người cải đạo đáng chú ý: Ly-đi và người cai ngục. Mỗi người trong số họ đều được Chúa Giê-su chạm đến cuộc đời, theo những cách rất khác nhau.
Ly đi là người Do Thái, đã biết rõ Đức Chúa Trời, còn người cai ngục là người ngoại chưa từng biết Chúa Giê su là ai. Đức Thánh Linh đã ban tặng cho hai người đó phần thưởng lớn là hai gia đình cũng đều tin nhận Chúa.


Cả hai đều nghe Phúc Âm và tin, và qua mỗi người, cả gia đình họ đều được chạm đến! Đó là một hội thánh kỳ lạ và tuyệt vời mà đoàn truyền giáo để lại ở Phi-líp, dường như Lu-ca đã ở lại Phi-líp ít nhất một thời gian, có lẽ để chăm sóc hội thánh mới này.

Cám ơn Chúa vì tình yêu của Ngài đến với mọi người, dù chỉ có một người phụ nữ tầm thường nhóm họp bên bờ sông, hay một cai ngục, có cuộc đời ở trong nơi tối tăm, tồi tệ. Ngài đều trông thấy.